Mở rộng lãnh thổ Ân_(Thập_quốc)

Tháng 2 ÂL năm Quý Mão (943), Vương Diên Chính xưng đế ở Kiến châu, đặt quốc hiệu là "Đại Ân", đại xá, cải nguyên Thiên Đức. Ông thăng Tương Lạc huyện thành Dong châu, thăng Diên Bình trấn thành châu. Không lâu sau, Vương Diên Chính bổ nhiệm Phan Thừa Hựu làm 'đồng bình chương sự', bổ nhiệm Dương Tư Cung (陽楊思) làm 'bộc xạ'. Vương Diên Chính mặc 'giả bào' thị sự, song ông vẫn dùng lễ phiên trấn để tiếp sứ giả của các nước lân cận. Nước Ân nhỏ dân chúng nghèo khó, song phí tổn cho quân đội lại lớn. Dương Tư Cung đắc hạnh do áp thuế nặng nhân dân, như thuế ruộng, hay thuế cá, muối, rau, quả, bị người trong nước gọi là "Dương bác bì", tức Dương lột da."[2]

Tháng 4 ÂL cùng năm, quân Ân dưới quyền tướng Trần Vọng và những người khác tiến công Phúc châu, vào thành từ khu ngoại ô phía tây, song cuối cùng bị đánh bại và phải về Ân. Sang tháng 5 ÂL, Phan Thừa Hựu dâng thư, chỉ ra 10 điều, điểm chính là:[2]

  1. Anh em đánh lẫn nhau, ngược với đạo trời.
  2. Trưng thu thuế nặng, bắt lao dịch vô độ.
  3. Bắt dân làm binh, ép buộc họ vào quân đội khiến họ sầu oán.
  4. Dương Tư Cung đoạt y phục và lương thực của dân (tức đánh thuế nặng), khiến oán giận đổ về thánh thượng, quần thần chẳng ai dám nói.
  5. Cương thổ Ân nhỏ hẹp song đặt nhiều châu huyện, tăng thêm quan lại làm dân khổ sở.
  6. Mở đường thu góp lương thực để đánh Đinh châu, mà lại không lo Kim Lăng (tức Nam Đường) và Tiền Đường (tức Ngô Việt) thừa dịp đánh úp.
  7. Thu giữ tài sản của hộ giàu, người nhiều tiền thì được bổ nhiệm làm quan, người thiếu thuế phải chịu hình phạt.
  8. Thu thuế quả, rau, cá, gạo ở các bến đò, có lợi thì ít, nhận oán giận thì rất nhiều.
  9. ĐườngNgô Việt là láng giềng, từ khi tức vị chưa từng thông sứ.
  10. [Xây dựng] Cung thất đài tạ, trang sức vô độ.

Vương Diên Chính rất tức giận, tước quan tước của Phan Thừa Hựu và buộc người này phải về nhà.[2]

Tháng giêng năm Giáp Thìn (944), Ân đúc tiền sắt lớn Thiên Đức thông bảo, mỗi đồng lớn có giá trị bằng 100 đồng nhỏ.[2]

Cũng trong tháng, Hoàng đế Lý Cảnh của Nam Đường sai sứ đem thư cho Vương Hy và Vương Diên Chính, trách việc anh em đánh lẫn nhau. Vương Diên Chính thì viết thư lại chê trách họ Lý (Nam Đường) đoạt nước của họ Dương (Ngô, Lý Cảnh giận dữ và cắt đứt quan hệ với Ân.[2]

Đến tháng 3 ÂL, Vương Hy bị các bộ tướng Chu Văn TiếnLiên Trọng Ngộ sát hại. Liên Trọng Ngộ ủng hộ Chu Văn Tiến làm tân đế của Mân, diệt trừ các thành viên họ Vương tại Phúc châu. Hay tin, Vương Diên Chính sai Ngô Thành Nghĩa (吳成義) thảo phạt Chu Văn Tiến, song không thành công. Đến tháng 11 ÂL, các sĩ quan ở Tuyền châu[c 6] như Lưu Tòng Hiệu (留從效) ám sát thứ sử do Chu Văn Tiến bổ nhiệm, và quy phục Ân. Tướng Trình Mô (程謨) ở Chương châu[c 7] biết tin thì cũng nổi dậy do Chu Văn Tiến bổ nhiệm. Đinh châu thứ sử Hứa Văn Chẩn (許文稹) cũng phụng biểu thỉnh hàng Ân.[3]

Tháng 12 ÂL, Chu Văn Tiến sai các tướng Lâm Thủ Lượng (林守諒) và Lý Đình Ngạc (李廷鍔) đem binh tiến công Tuyền châu, Vương Diên Chính sai Đại tướng quân Đỗ Tiến (杜進) đem hai vạn binh đến cứu Tuyền châu. Lưu Tòng Hiệu giao chiến với quân Phúc châu, giết Lâm Thủ Lượng và bắt giữ Lý Đình Ngạc. Vương Diên Chính sai Ngô Hành Nghĩa đem một nghìn chiến hạm tiến công Phúc châu, Chu Văn Tiến cầu cứu Ngô Việt. Trong khi đó, tướng Nam Đường là Tra Văn Huy (查文徽) tiến công Kiến châu, song đến khi hay tin Chương châu, Tuyền châu và Đinh châu đều quy phục Ân thì người này triệt thoái đến Kiến Dương[c 8].[3]

Ngô Hành Nghĩa lừa người dân Phúc châu rằng quân Nam Đường thực ra tiếp viện cho Ân tiến công Chu Văn Tiến. Ngáy Ất Mùi (27) tháng 12 nhuận (12 tháng 2 năm 945), Chu Văn Tiến cầu hòa bằng cách sai Lý Quang Chuẩn (李光准) dâng quốc bảo cho Vương Diên Chính. Tuy nhiên, đến ngày Đinh Dậu (29) cùng tháng, Phúc châu nam lang thừa chỉ Lâm Nhân Hàn (林仁翰) tiến hành binh biến, sát hại Liên Trọng Ngộ và Chu Văn Tiến. Lâm Nhân Hàn mở cổng thành Phúc châu nghênh Ngô Hành Nghĩa nhập thành.[3]